Núi Đôi trong văn hóa Núi Đôi (Sóc Sơn)

Dân gian

Núi Đôi nằm giữa vùng Đồng bằng sông Hồng trù phú và có lịch sử văn hóa lâu đời. Tọa lạc bên núi Đôi là làng Xuân Dục - một làng cổ, bằng chứng là đình làng ở đây vẫn còn giữ tập tục thờ Lạc Long QuânÂu Cơ - điều khá hiếm thấy ở các làng khác của đồng bằng sông Hồng.

Tương truyền rằng, vào thời Hùng Vương, có một cánh quân của Thánh Gióng do tướng Hữu Lâm chỉ huy, một buổi chiều giáp Tết hành quân qua Xuân Đán Trang. Vị chủ tướng thấy nơi đây có rừng già, phong cảnh đẹp bèn cho quân dừng chân nghỉ lại. Để quân dân cùng vui, dân làng đem cơm nắm, cà muối ra thết nghĩa quân (nay ở Xuân Dục còn có địa danh Rừng Cơm)[1].

Tục húc cầu ở Xuân Dục cũng được giải thích là bắt nguồn từ bộ tướng của Thánh Gióng trên đường đi đánh giặc dừng chân ở làng, dạy cho trẻ làng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng, bản chất của tục này là tín ngưỡng thờ Mặt Trời - một dạng tín ngưỡng của nền văn minh lúa nước, cầu mưa thuận gió hòa và được mùa, thể hiện ở nhiều chi tiết như quả cầu được sơn màu đỏ, húc cầu chơi vào giữa buổi trưa, hai lồ cầu theo chiều Đông-Tây - chiều chuyển động của Mặt Trời, quả cầu được ngâm dưới ao suốt năm,...[2].

Làng Xuân Dục bao gồm 2 cụm dân cư khác nhau với núi Đôi ở giữa. Cụm phía Đông là cụm chính, có đìnhchùa của làng, gọi là Xuân Dục Đông; cụm phía Tây là cụm phụ, gọi là Xuân Đoài.

Về nguồn gốc của núi Đôi, truyền thuyết phổ biến nhất còn được cư dân quanh vùng lưu giữ kể rằng Núi Đôi được tạo thành từ hai gánh đất bị đứt của người khổng lồ. Tuy nhiên, truyền thuyết này có rất nhiều dị bản và không có bản thể đầy đủ để kể thành một câu chuyện, chỉ được truyền miệng trong dân gian.

Hiện đại

Núi Đôi cũng là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Thời kháng chiến, đây từng là căn cứ quân sự của giặc Pháp. Trong khu vực núi Đôi hiện còn tồn tại khoảng 10 tàn tích các đồn bốt quân sự bằng đá và gạch nằm rải rác.

Núi Đôi còn xuất hiện trong văn học và nghệ thuật thời chiến, điển hình là bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao:

. . .

Lối ta đi giữa hai sườn núi

Ðôi ngọn nên làng gọi núi Ðôi

Em vẫn đùa anh: sao khéo thế

Núi chồng núi vợ đứng song đôi!

. . .

Bài thơ được Vũ Cao lấy cảm hứng từ một lần ông công tác tại sư đoàn 312, đóng quân ở Sóc Sơn, được người dân làng Xuân Dục kể về chuyện tình của nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc[3] trong Kháng Chiến Chống Pháp.